Tôi đứng lặng trước cột mốc 1116, nơi được xem là km số 0 từ cửa khẩu Hữu Nghị. Phóng tầm mắt về phương Nam, qua những rặng núi chập chùng mây phủ, tôi tưởng ra dải đất hình chữ S uốn cong như cánh tay mẹ đang mở rộng, ôm trọn lấy giang sơn gấm vóc.
Sau lưng tôi là lớp lớp mây xám giăng đầy trời. Gió từ thung lũng thổi qua, lành lạnh và thấm sâu, nghe như tiếng vọng mơ hồ của ngàn năm cũ. Tôi may mắn đến được nơi mà sử sách từng nhiều lần nhắc đến: Ải Nam Quan, chốn địa đầu đất Việt, nơi từng chứng kiến biết bao thăng trầm nhục vinh của đất nước …
Bức tường đá kia lặng im trầm mặc, nhưng chứng tích lịch sử thì luôn ghi nhớ. Đây từng là nơi Thoát Hoan phải tháo chạy về phương Bắc. Một thế kỷ rưỡi sau, đầu Liễu Thăng rơi xuống đất này. Rồi đến năm Kỷ Dậu, tiếng đại bác nhà Thanh cũng câm lặng trước bước tiến thần tốc của quân Tây Sơn.
Gần đó, tại Thủy Môn Đình, trên tấm bia đá từ năm 1670 vẫn còn khắc rõ hai chữ “Việt Nam”, không phải cái tên mới mẻ của thời hiện đại, mà là dấu ấn xưa, như một khẳng định rằng người Việt đã có tên, có đất, có linh hồn riêng tự bao đời. Hai chữ Việt Nam khắc lên bia ở Thuỷ Môn Đình như một vết khắc sâu vào sương núi, nhắn gửi hậu thế rằng: “Đây là đất của tổ tiên các ngươi. Đừng bao giờ quên.”
Ải Nam Quan không chỉ là ranh giới của bản đồ, mà là ranh giới giữa kiêu hãnh và khuất phục. Một dân tộc từng bị đô hộ hàng nghìn năm, vậy mà vẫn giữ được tiếng nói, phong tục, và cốt cách riêng mình …
Vang vang câu hát của Nguyễn Đức Quang trong bài Về với mẹ cha: “Từ Nam Quan, Cà Mau. Từ non cao rừng sâu.
Gặp nhau do non nước xây cầu...”
Phải, chính non nước này là cầu nối những trái tim Việt. Dù bất cứ nơi đâu, từ quá khứ đến hiện tại vẫn sôi sục chảy một dòng máu, vẫn một niềm tin đất nước mãi trường tồn
Ngày xưa, khi Nguyễn Phi Khanh bị quân Minh bắt giải qua Ải Nam Quan, Nguyễn Trãi đã đi theo đến tận nơi. Lời cha dặn: “Hãy trở về, tìm minh chủ mà cứu nước”. Từ cuộc chia ly ấy, đất nước có thêm một linh hồn lớn, viết nên Bình Ngô đại cáo, bản hùng văn thắp sáng niềm tự hào dân tộc.
Ải Nam Quan không chỉ là một địa danh. Nó là ký ức. Là lời thề. Là tráng ca được chép bằng máu và nước mắt trên từng vách núi, dòng sông, từng đêm trường đứng gác trong lặng im.
Từ ngày tiếng súng nơi biên giới tạm im vắng, bao năm tháng đã trôi qua nhưng nỗi đau thương nỗi uất ức vẫn chưa nguôi, nỗi giận người hờn trách mình vẫn cứ hiện diện trong tâm tưởng.
Ngày nay đứng nơi đây nhìn Ải Nam Quan xây dựng tráng lệ mang một cái tên mới bóng bẩy: Cửa khẩu Hữu Nghị. Đường lên biên ải không còn độc đạo nhỏ hẹp đi giữa núi cao vực sâu mà từ đây xa lộ cao tốc song hành cùng đường sắt chạy đến tận Thủ đô ...
Bài học từ nghìn năm đến tận ngày nay thấm đẫm máu và nước mắt. Từ bao đời, cha ông đã truyền lại một lời dặn như khắc sâu vào đá, rạch vào tim. Lời nhắc nhở hậu thế phải nhớ và phải hiểu đúng nghĩa của tiền nhân :
BẮC MÔN TOẢ THƯỢC