" Quê Hương chốn thanh bình có bầu trời xanh thắm xanh.
Đồng lúa thẳng cánh cò bay lấp lánh cánh diều mơ ước tuổi thơ ..."
Đồng lúa thẳng cánh cò bay lấp lánh cánh diều mơ ước tuổi thơ ..."
Cứ đến ngày anh bốn về là làng xóm đang bình
yên lại rần rần ! Trẻ nhỏ chạy theo anh từ dốc cầu đến tận nhà bỡi anh có cái
ra - dô mang chéo ngang vai xuống hông mở ca hát inh ỏi. Thanh niên soi kỹ từ
mái đầu trần của anh đặng liệu bắt chước cách chải tóc có thoa bri - ăng - tin bóng
lưởng rồi xuống đôi chân mang giày ba ta kiểu thắt dây ra sao.
Con gái con đứa
đang chằm nón giả bộ chăm chú chớ liếc xéo để ý quần áo anh bốn mặc, cái xe
sườn đầm có cột dây ny lông tím từ gạc - đề - bu xuống chỗ gác chân của bọc -
ba - ga đến cái đèn hậu nhỏ xíu đỏ lấp lánh...Xế xế việc quỡn, tụ tập trà rượu
là anh kể về xe về tàu về súng ống... là đám cử toạ cỡ tuổi cha tuổi chú cũng
im re ngồi gật gù ! Anh bốn là con nhà giàu, có đi học nhiều trường nhiều nơi
lắm và nghe đâu chuẩn bị làm việc cho chánh phủ.Anh Bốn Ơn đại diện cho thời trang, cho văn minh, cho tình hình và cho mọi thứ...
Rồi lâu thiệt lâu không thấy anh bốn .
Đùng một phát, anh Bốn Ơn về, anh mặc đồ lính, hoá ra lâu nay anh bốn đi quân dịch !
Kỳ này nghe nói về chơi cả tuần, mọi thứ ở anh bốn sau vài ba ngày hình như không khác gì, bộ đồ lính anh đã cởi ra móc trên cái gạc nai đính vô vách tường .
Bàu Xéo cá tràu to bằng bắp chân người lớn
nghe đồn nhiều vô số kể chứ nói chi đồ cá diếc cá trê cá rô, nếu tát cạn ghe
tàu nào chở cho hết. Bỡi xưa nay có bao giờ cạn nên cá con cá cháu chắt tha hồ
lớn, câu vài ba con lấy có chớ sức đâu mà bắt !
Bắt cá Bàu Xéo luôn nằm trong toan tính của dân làng, là nỗi thèm muốn từ lâu, ngặt là bàu đã to lại sâu, gàu sòng vài ba cặp cũng chịu thua .
Anh Bốn Ơn đã tìm ra chìa khoá cho cả dân làng .
Anh Bốn Ơn có trái lựu đạn, ảnh nói quăng nó xuống bàu, là xong !
Dân làng răm rắp nghe theo sự sắp đặt người bắt kẻ vớt, thúng mủng thùng chậu đựng, thậm chí hẹn xe ngựa chờ sẵn chỗ dốc cầu đặng chở đi bán cho nhanh kẻo cá ươn cũng do anh bốn lường trước hết...
Trời còn mờ mờ trên đường đất dẫn ra bàu đã chẳng thiếu ai, cùng đi cùng nói cười hỉ hả, đi đằng trước thím năm cự chú năm việc ổng đem theo chiếc gàu sòng làm chi bỡi ổng chỉ cần đi vớt cá thôi mà (!), chú lật đật chạy lộn về đổi lấy cặp thúng thêm cái rổ sảo, anh tám tay xua bà con đi nhanh, tay cầm điếu thuốc miệng xả khói bay là đà quanh cái rổ thưa thiệt lớn úp trên đầu, chú tám chắc quyết tâm kỳ này chỉ bắt con to, đám nhỏ lỡ cỡ quần đùi lòi rún hăm hở cầm rổ tre chạy tới lộn lui, mấy bà mấy chị tuy vẫn từ tốn khoan thai nhưng hai tay hai giỏ kẹp đã cẩn thận lót thêm khá nhiều lá chuối...
Đến nơi, giữa lô nhô người, anh bốn giải thích:
- Lựu đạn tui quăng xuống bàu chỉ nghe tiếng bũm, nó nổ dưới nước bà con nghe tiếng ục ục hù (!) nhưng phải cho chắc ăn bỡi tên bay đạn lạc...
Mới nghe nói đến đạn lạc, vài người muốn thụt lui coi bộ sợ, anh bốn xua tay nói tiếp:
- Hổng sao hổng sao, chỉ cần nằm xuống úp đầu dưới đất nhịn thở chút xíu là xong, rồi mình xuống vớt cá...
Nghe nói cá, mọi người dạn dĩ hẳn lên và vài người đã lo nằm xuống nhưng cổ vẫn nghểnh cao coi anh bốn làm...
Cả đám nằm lộn xộn, một mình anh Bốn Ơn đứng như ông tướng nổi rõ trên nền trời bình minh sáng tỏ dần, anh rút lựu đạn từ cạp quần, tay phải cầm chặt, tay trái chuẩn bị rút chốt, anh nghiêng người lấy đà ... Im phăng phắc, úp mặt, nín thở mà không nghe tiếng bũm, hơi thở nhẹ chờ nghe tiếng ục ục hù...
Ầm...!
Tiếng nổ xé màng nhĩ, mọi người tay ôm ngực tay che chói mắt nhìn cột khói ở bờ bên ... kia bàu !
Khỏi nói, ảnh nhanh chân hơn trốn mất khi chưa kịp nghe bà con cự nự...
Bắt cá Bàu Xéo luôn nằm trong toan tính của dân làng, là nỗi thèm muốn từ lâu, ngặt là bàu đã to lại sâu, gàu sòng vài ba cặp cũng chịu thua .
Anh Bốn Ơn đã tìm ra chìa khoá cho cả dân làng .
Anh Bốn Ơn có trái lựu đạn, ảnh nói quăng nó xuống bàu, là xong !
Dân làng răm rắp nghe theo sự sắp đặt người bắt kẻ vớt, thúng mủng thùng chậu đựng, thậm chí hẹn xe ngựa chờ sẵn chỗ dốc cầu đặng chở đi bán cho nhanh kẻo cá ươn cũng do anh bốn lường trước hết...
Trời còn mờ mờ trên đường đất dẫn ra bàu đã chẳng thiếu ai, cùng đi cùng nói cười hỉ hả, đi đằng trước thím năm cự chú năm việc ổng đem theo chiếc gàu sòng làm chi bỡi ổng chỉ cần đi vớt cá thôi mà (!), chú lật đật chạy lộn về đổi lấy cặp thúng thêm cái rổ sảo, anh tám tay xua bà con đi nhanh, tay cầm điếu thuốc miệng xả khói bay là đà quanh cái rổ thưa thiệt lớn úp trên đầu, chú tám chắc quyết tâm kỳ này chỉ bắt con to, đám nhỏ lỡ cỡ quần đùi lòi rún hăm hở cầm rổ tre chạy tới lộn lui, mấy bà mấy chị tuy vẫn từ tốn khoan thai nhưng hai tay hai giỏ kẹp đã cẩn thận lót thêm khá nhiều lá chuối...
Đến nơi, giữa lô nhô người, anh bốn giải thích:
- Lựu đạn tui quăng xuống bàu chỉ nghe tiếng bũm, nó nổ dưới nước bà con nghe tiếng ục ục hù (!) nhưng phải cho chắc ăn bỡi tên bay đạn lạc...
Mới nghe nói đến đạn lạc, vài người muốn thụt lui coi bộ sợ, anh bốn xua tay nói tiếp:
- Hổng sao hổng sao, chỉ cần nằm xuống úp đầu dưới đất nhịn thở chút xíu là xong, rồi mình xuống vớt cá...
Nghe nói cá, mọi người dạn dĩ hẳn lên và vài người đã lo nằm xuống nhưng cổ vẫn nghểnh cao coi anh bốn làm...
Cả đám nằm lộn xộn, một mình anh Bốn Ơn đứng như ông tướng nổi rõ trên nền trời bình minh sáng tỏ dần, anh rút lựu đạn từ cạp quần, tay phải cầm chặt, tay trái chuẩn bị rút chốt, anh nghiêng người lấy đà ... Im phăng phắc, úp mặt, nín thở mà không nghe tiếng bũm, hơi thở nhẹ chờ nghe tiếng ục ục hù...
Ầm...!
Tiếng nổ xé màng nhĩ, mọi người tay ôm ngực tay che chói mắt nhìn cột khói ở bờ bên ... kia bàu !
Khỏi nói, ảnh nhanh chân hơn trốn mất khi chưa kịp nghe bà con cự nự...
Cả làng được bữa cười
và tự cười nhau đã đời, cho tận đến lúc tôi đi học là đã sáu bảy tháng liền
hổng thấy mặt anh bốn nhưng ảnh đã kịp có tên mới do dân làng đặt, chết tên đến
tận bây giờ - Anh Bốn Ớn !
Phú Đặng